Trị vì Thiên_hoàng_Kōgyoku

Khi còn nhỏ, bà có tên là Takara (寶; Bảo)[3], tôn xưng là Bảo nữ vương (寶女王); về sau được gọi là Bảo hoàng nữ (宝皇女). Bà là chắt gái của Mẫn Đạt Thiên hoàng, con gái của Vương tử Chinu (茅渟王, ちぬのみこ), là cháu nội của Thiên hoàng[4].

Về sau, bà trở thành Hoàng hậu của người chú, em trai của cha bà, là Thư Minh Thiên hoàng và có ba người con; gồm 2 hoàng tử và 1 hoàng nữ, về sau đều có ảnh hưởng lớn trong chính trị Nhật Bản.

Hoàng Cực Thiên hoàng thời kì

Ngày 25 tháng 1 năm 642, Bảo hoàng nữ lên ngôi sau khi Thư Minh Thiên hoàng băng hà. Trong thời kỳ bà trị vì, danh hiệu Thiên hoàng chưa được dùng, bà chỉ được gọi là Amenoshita Shiroshimesu Ōkimi (治天下大王; Trị Thiên Hạ Đại vương). Tên hiệu Hoàng Cực Thiên hoàng của bà trong thời kì này thực chất là về sau người ta đặt ra, dựa theo sáng kiến dùng niên hiệu của Hiếu Đức Thiên hoàng[5].

Thời kỳ này chứng kiến gia tộc Soga tiếp tục nắm toàn quyền và xoá bỏ những cải cách của Thánh Đức Thái tử, cai trị ngày càng độc đoán.

Cuộc đấu tranh giữa gia tộc Nakatomi theo phái cải cách và gia tộc Soga theo phái bảo thủ diễn ra đến hồi quyết liệt nhất, Hoàng Cực Thiên hoàng trên thực tế chỉ còn là hư vị, loạn lạc xảy ra khắp nơi trong Nhật Bản. Tháng 7 năm 645, Nakatomi Kamatari làm chính biến lật đổ Soga no Iruka (蘇我入鹿; Tô Ngã Nhập Lộc) tại tư dinh.

Theo đó, Hoàng Cực Thiên hoàng bị sốc trước sư kiện này, đã tuyên bố thoái vị và nhường ngôi cho em trai, Kinh hoàng tử (輕皇子, Karu-no-Ōji). Đó là ngày 12 tháng 7 năm 645, chỉ trong vòng 2 năm trị vì.

Kinh hoàng tử kế vị, tức Hiếu Đức Thiên hoàng.

Tề Minh Thiên hoàng thời kì

Ngày 14 tháng 2, năm 655, sau khi em trai là Hiếu Đức Thiên hoàng bất ngờ băng hà, Bảo hoàng nữ trở lại ngôi vị Quốc chúa. Lên ngôi sau khi cuộc Cải cách Taika còn vấp phải lắm sự chống đối của phe bảo thủ, bà phải rất vất vả ổn định quốc gia.

Trong khi đó ở Triều Tiên, Tân La vừa chinh phục được Bách Tế năm 660 và tiến tới giành lại chủ quyền ở vùng đất Mimana, vốn bị Nhật Bản chiếm đóng từ năm 370. Các quý tộc Bách Tế lưu vong sang Nhật Bản, xin Tề Minh Thiên hoàng giúp đỡ việc phục quốc. Nhận lời thỉnh cầu đó, Tề Minh thân hành đến Hoàng cung Asukara (nay thuộc Fukuoka) chuẩn bị quân đội tiến đánh Tân La.

Trong khi quân đội chuẩn bị tiến quân, cái chết bất ngờ của bà vào ngày 24 tháng 8 làm hỏng kế hoạch này. Con trai bà là Nhiếp chính Naka no Oe kế vị. Tề Minh Thiên hoàng hưởng thọ khoảng 67 tuổi; cả hai lần trị vì của bà tổng cộng khoảng 8 năm, bà được an táng tại Việt Trí Cương Thượng lăng (越智崗上陵).

Công khanh

Công khanh (公卿; Kugyō) là thuật ngữ dùng để chỉ hội đồng những nhân vật chính trị có ảnh hưởng lớn trong triều đình Nhật Bản trước thời kì Minh Trị Duy Tân.

Thông thường, hội đồng này cùng lúc chỉ khoảng 3 đến 4 vị quan; những vị này còn gọi là Thái chính quan (太政官; Daijō-kan). Vào thời kì Hoàng Cực Thiên hoàng; Thái chính quan bao gồm 2 chức vị:

Triều đình Nhật Bản thời Hoàng Cực/ Tề Minh có những vị đại thần đáng chú ý:

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thiên_hoàng_Kōgyoku http://www.worldcat.org/title/chronicle-of-gods-an... http://www.worldcat.org/title/future-and-the-past-... http://www.worldcat.org/title/nihongi-chronicles-o... http://www.worldcat.org/title/nipon-o-dai-itsi-ran... http://www.worldcat.org/wcpa/oclc/194887 https://books.google.com/books?id=18oNAAAAIAAJ&dq=... https://books.google.com/books?id=SLAeAAAAMAAJ&q=T... https://books.google.com/books?id=_oEfAAAAYAAJ&cli... https://books.google.com/books?id=tVv6OAAACAAJ&dq= https://books.google.com/books?id=w4f5FrmIJKIC&dq=...